Mỗi
người, mỗi nơi trên thế giới đều có một
cái nhìn và thói quen được lưu truyền lại có lẽ cả nghìn đời.
Như anh Việt
Nam
ta ngày trước chỉ để ý một
năm có tháng nhuận
hay không, tháng này thiếu
hay đủ, không quan tâm mỗi
năm bao nhiêu ngày. Bây giờ,
ăn cỗ mừng sinh nhật
là một cái mới, trước kia ở quê tôi chỉ
thấy có mừng thọ, thượng thọ,
lên lão và coi trọng nền nếp ngày giỗ.
Ở trong Nam thì ngày giỗ
người ta coi trọng
và ăn uống linh đình lắm. Nói đi ăn giỗ là có gì đó
“hoành tráng” hơn đám cưới
ngoài Bắc. Một năm theo Tây lịch thì có 365 ngày, năm nhuận thì có 366 ngày, trong một năm lại có
những ngày bình thường, cũng lại có những ngày khác thường,
ngày khác thường ấy là những ngày cũng giỗ, tết nhất.
Những cái Tết và các ngày giỗ chạp khá nhiều.
Bây giờ vẫn thế- nhất là ở thôn xóm, nhà thì có miếng thịt lợn, cái chân giò, con gà, nhà thanh bạch thì đĩa xôi, nải chuối. nhà nào không thích bày vẽ thì có thẻ hương, bát nước cúng đặt lên bàn thờ, cốt tấm
lòng ghi nhớ, không ai tị hiềm, đua đòi, ganh ghét.
Tháng Giêng,
Tết cả, Tết nhất, Tết Nguyên Đán có bốn
ngày. Nhưng lại có câu nói cửa miệng là “ba ngày Tết”??????????. chắc có lẽ là
ngày mùng bốn hạ cỗ, “hoá vàng để các cụ có tiền
tàu xe về cõi âm”. Cái này tôi không hiểu nổi. Mùng bảy
lễ hạ cây nêu và động thổ. Cất đi cành tre và mấy chùm khánh bằng đất mấy
ngày Tết
mưa gió rét mướt vẫn reo lanh canh ngoài sân. Vác cuốc ra đồng, cuốc
quàng cuốc xiên cái bờ
vài nhát “động thổ”.
Nhưng ở làng tôi thì mùng bảy
là ngày “ăn tết vét”, hôm ấy ăn thịt gà. Ngoài ao cá Bác Hồ có tổ chức bắt vịt,
thổi
cơm thi. Vui đáo để. Trời rét mà các thanh niên vẫn thi nhau nhảy ùm ùm xuống
ao bơi, lặn để bắt mấy
con vịt gầy giơ xương về thịt mà đánh chén với nhau. Tháng Giêng còn có tiết thanh minh đi tảo mộ đem theo thẻ hương , cái cuốc, tảng đá, mươi hòn gạch. Hương để thắp, cuốc xới cỏ, đắp mộ và hòn đá hòn gạch đặt thêm vào nấm
mồ mooci năm. Khi ấy, ở nhà làm cơm cúng gia
tiên, gọi
là “ăn họ”. Quê tôi, có họ - trong đó có họ Nguyễn Huy nhà tôi, làm lễ tảo mộ vào tháng chạp
trước Tết. Thường là từ ngày 24 trở
đi. Rồi, rằm tháng giêng cúng ngày rằm tháng Giêng, rằm Nguyên Tiêu, ngày này nhà nào cũng thổi xôi, nấu chè bà cốt. “Lễ Phật
quanh năm không bằng
ngày rằm tháng Giêng”.
Mùng ba
tháng ba tết bánh trôi,
bánh chay, cúng rặt đồ nguội. Theo tục bên Tàu mà tôi đọc trong sách là ngày giỗ ông Giới Tử Thôi. Xưa, có ông Giới Tử Thôi bỏ triều đình vào ở ẩn trong rừng.
vua cho gọi, ở lỳ không ra, vua cho đốt rừng. Nhưng ông và mẹ chịu chết
cháy trong rừng chứ không ra. Nhớ ông, cứ ngày 3/3 ÂL vua cấm mọi
nhà dùng lửa, thức ăn phải lo từ hôm trước. Người
bên ta ăn bánh trôi bánh chay chắc chả người nào biết cái sự tích cấm lửa ở tận đẩu tận đâu ấy.
Đến Tết mùng năm tháng năm giữa mùa hè giết sâu bọ để cho
quanh năm đc khoẻ mạnh. Sáng sớm, bọn trẻ con chúng tôi- dù nhà theo đạo Thiên Chúa không có cũng gì hết, cũng lội xuống sông tắm,
bôi vôi vào rốn để trừ con quấy làm đau bụng. rồi
thì uống
nước dừa, ăn các hoa quả đang mùa như: đào, mận, vải…cơm rượu nếp. Rồi
còn được nhuộm móng tay móng chân bằng là móng và lá vông nữa. Hồi
năm trước tôi có được vào trong Ba Trại, Suối Hai chơi, thấy
người ta còn chờ đúng 12h trưa (giờ Ngọ), đi ra ngắt
là ở bờ rào, ngoài vườn. Lá duối, lá ổi, lá sung, lá vối…mang về phơi khô để uống
quanh năm. Các thứ lá
lih tinh lấy vào buổi
trưa ấy các cụ bảo đều
là “lá khước” vì được giờ lành giờ
linh, đến nối con thằn
lằn, con cánh cam đều biến đâu mất, tất cả con vật đều im lặng. tục ngữ
có câu: “Len lét như rắn mùng năm” là thế chăng?
Rằm tháng bảy “xá tội vong nhân”, các chùa đều
cúng, toàn đồ chay cả, ở các xóm trong làng tôi, cứ xóm nào có miếu là lại múc cháo vào các lá đa
để rải quanh miếu. Các bà vãi đứng vòng quanh chèo đò hát kể hạnh cả đêm. Tôi thấy bên Canh Nậu còn quấy
bánh đúc là gừng. lúc sáng
trăng, ăn bánh đúc với ốc luộc. Ốc vặn, ốc lồi
béo nhất vào cữ tháng bảy
tháng tám này.
Rằm tháng tám tết Trung thu, tết của trẻ con nhưng cả
người lớn, trẻ con
đều vui tết. Chơi đèn, phá cỗ trông trăng, bổ
bưởi, ăn bánh
nướng bánh dẻo. Bây giờ có bánh Kinh ĐÔ, Hải Hà, Hữu Nghị. Ngày trước chủ yếu
là bánh Xuân Đỉnh, Hữu Bằng, Sấu và
La Phù.
Ở mạn
Sơn Tây, Sen Chiểu, Tổng Cốc ăn tết
Trùng Cửu- mùng chin tháng chin. Tết
này người ta ăn bánh tẻ, ăn măng gác bếp om với chân giò, đồ
xôi lạc. Tôi đã từng uống rượu rồi hôm sau nghỉ
làm chỉ vì trót ham ăn, ham uống ở nhà anh Nghị
chợ Gạch. Rồi mùng mười tháng mười tết cơm mới, mừng cơm mới thì nhà nào cũng làm tết.
lúc này ăn thịt chim bồ câu, chim ngói đồ
xôi ăn cùng lá kinh giới. Con gái đi lấy chồng mua về
cho nhà bố mẹ đẻ vài lạng
thịt, sát vài cân gạo nếp mới về để “mừng cơm mới”, gọi là
mang về để mợ thử tài gieo cấy của con gái đi lấy chồng.
lại Tết mùng một
hay rằm
tháng mười- Tết Hạ
Nguyên, cũng vẫn mừng
cơm mới, được mùa.
Sang tháng
chạp bắt đầu mọi việc lễ lạt sửa soạn
cho tết
Nguyên Đán. Hai mươi ba, cúng ông Công ông Táo. Vua bếp lên chầu trời tâu việc dương gian của gia chủ quanh năm ăn ở tốt hay xấu.
lý lịch trích ngang của ba vua bếp thì người ta kể vừa
thành kính lại vừa tiếu lâm. Ba hòn đất trong bếp
– ba ông đầu rau, bảo đấy là “vua bếp
hai ông một bà”. Ngày này
thả cá chép ra phóng sinh ngoài sông.
Không riêng ở quê tôi, mà ở
Đà Nẵng, Sài Gòn, Trung - Nam cũng thả
cá chép, nhưng vừa
phóng sinh xong là ở đâu
kia có mấy
ông “ngư phủ” dùng vợt vớt lại rồi mang về hay ra chợ bán tiếp. thành tệ
nạn mất rồi.
Lễ sắp ấn
vào ngày 25. Làm việc
quan đến hôm ấy thì xếp dấu, triện cất
vào trap. Mọi nhà chẳng bận chẳng
biết cái tráp của các “quan làng” cũng thắp
hương ăn cỗ về việc ấy.
Sang giêng, có lễ
khai ấn, lại đèn nhang mù mịt. chiều 30 tết cúng tiên thường. tổ tiên ở xa
tận
dưới Suối Vàng , phải
làm cỗ khấn nhắc
các cụ nhớ về kịp ăn tết với
con cháu. THẾ LÀ CÁC NGÀY TẾT QUANH NĂM, ĐÃ KỂ HẾT VÀ TÍNH TOÁN VỚI LO TOAN ĐÃ XONG.
Cúng giỗ không phải chỉ vì mê tín mà trước hết là nhớ người đã khuất
và ý nguyện cầu mong sự tốt lành, cho chợ búa, hàng họ,
công việc
ăn nên làm ra, mọi người khoẻ mạnh bình yên, trong nhà trên thuận
dưới hoà… Cuối tháng hai, nắng nhạt đã bắt đầu chớm gắt.
cúng vào hè giải hạn kỳ yên. Mùa hạ
được
coi là mùa độc trời nhất trong năm. Nắng đang oi bức
lại
có mưa rào đổ xuống. trời lại “ra
tay” khi sét đánh chết người, chết
trâu bò, trẻ con hay ghẻ lở, cảm sốt, tháo dạ tiêu chảy, đủ thứ ốm đau. Nói đến đã rợn. Năm 1945, mùa hè còn tràn lan bệnh sởi, bệnh đậu, bệnh thổ tả, cộng với cả
đói, người chết vãn cả làng. Đọc sách lịch
sử thấy nói thế.
Và sợ nhất là trẻ con
tắm sông, tắm ao sảy chân, con người tự dưng hoá ra con ma chết trôi. Chiều mát thì hạ mâm xôi con gà ra, hương
hoa đặt giữa sân, có nhà tôi còn thấy mời cả thầy cúng. Rồi tới tháng sáu lại cúng ra hè, khi đó dường
như ai cũng thấy nhẹ mình vì mùa hè dữ dội đã qua, đã có cúng. Quanh năm, ngày rằm và mùng một đều có đèn hương. Đôi khi,
sửa đĩa xôi, khoanh thịt ba chỉ luộc, cút rượu trắng.
không phải cúng thần phật thế
nào, mà là có lòng với trời đất.
Trong nhà có người đã mất, người già lão bậc
cụ kỵ, ông bà hay người còn trẻ, còn bé cũng đều
được cúng giỗ. Cúng giỗ
chia ra nhà chi trưởng họ và nhà trưởng
nam. Trưởng họ, trưởng nam giữ giỗ tổ,
các cụ. nhà thứ
trai cũng như gái hàng năm về nhà trưởng góp giỗ.
Thứ nam thứu nữ
theo anh cả giỗ bó mẹ. anh em chẳng may bất hoà mới cúng riêng, nhưng đến ngày giỗ vẫn đem thẻ hương đến nhà anh cả. nghề nông thì có tết cơm mới mừng được
mùa. Các phường nghề thủ công thì giỗ
tổ nghề: nghề
may, nghề dệt, nghề mộc, nghề làm hương…..các làng
nghề, họ nghề họp ở nhà thờ, nhà ông trùm đóng tiền làm giỗ.
ấy
là chưa kể những cỗ bàn không hẳn tính trước được như ma chay và cưới xin. Bây giờ nếp sống mới,
không có chè chén hôm đưa đám, nhưng hôm cúng năm mươi hay một
trăm ngày, thể nào cũng làm
vài mâm, thậm chí vài chục mâm. Còn cưới xin thì nhiêu khê đủ thứ lễ lạt, nào chạm ngõ, xin hỏi,
ngày cưới, lại mặt…tất nhiên, ma chay, cưới xin hay khao vọng, khách khứa đến chia buồn,
chia vui đều mang theo lễ, tiền phúng, tiền
mừng- phía chủ nhà hiếm khi phải
thiệt. cũng là chưa kể việc họ, việc làng nước, cỗ đình, cỗ
chùa chia suất lấy phần hay thụ
lộc tại chỗ. Lại những công kia việc nọ,
tuỳ
thân sơ đến thăm hỏi, mừng cúng hay cỗ
mặn, chẳng những với họ hàng, lại
còn hàng xóm “bán anh em xa mua láng giềng gần”
và trả nợ miệng.
Tập tục rườm rà, tốn kém, đẫu
bây giờ đã tinh giản đi nhiều nhưng việc
cưới xin, ma chay trog làng ngoài phố vẫn làm lan tràn hoang phí. Thôn xóm thì nhà nọ nhìn nhà kia. ở
phường phố , người có của, có chức
có quyền thì nhìn người
khác tương tự mình mà ganh
đua.
Những hủ tục mới lẫn lộn đội lốt cái hủ tục cũ. Không biết bao giờ giỗ tết thực sự mới là
một phong tục sinh hoạt đẹp, nhất là
trong làng xã. Ngày thường ăn uống đạm bạc, đến bữa chỉ có nồi cơm với vài ngọn
rau dền,
rau bí vơ ngoài vườn. Nhưng, cũng đừng lấy thế làm
lạ.
người ta gánh cái thiếu thốn đã lâu đời,
lại cũng có thói quen bóp mồm bóp miệng
ngày dưng, nhưng có thể no nê đụng bát đụng đũa khi khác thường. có nghĩa là vì nghèo cũng có, vì
thói tục lo cái ăn cái uống trong giỗ tết cũng có. Cũng có thể gọi là
một
cách “ăn tươi”.
Ý nghĩa giỗ tết thật sự lâu đời ở đấy. không kể bọn xôi thịt ngày trước và những đứa hợm danh, hơm của
như bây giờ.
(*) bài này
tôi trích ra từ bài dự thi cuộc thi “ Viết cho quê hương tôi” do Thị
đoàn thị xã Sơn Tây tổ chức năm 2012. Tôi có tham gia bằng bài thi có tên “Văn
hoá, phong tục cũ mới xứ Đoài”. Trong bài này đã
chỉnh sửa đôi chút.